KGU News >>Văn học
KGU Tạo bài viết  
Thứ tư 26 Tháng bẩy. 2017

TRUYỆN CHÙA BỐI LINH (SỐ 4)




Tác giả: TuanDK

 

 

Bắt tay dựng lại cơ đồ

Binh lương là việc phải lo hàng đầu

Mê Linh vùng đất đẹp giàu

Sưu cao thuế nặng bấy lâu mỏi mòn

Gia binh một dúm cỏn con

Làm sao đủ sức ra đòn tấn công

Trăm dòng suối góp nên sông

Sức triều dâng bởi cộng đồng kết liên

Từ miền đất huyện Chu Diên

Rỉ tai nhau cứ lan truyền khắp nơi

Dân ta nay sắp đổi đời

Trời phương Nam xuất hiện ngôi sao vàng

Ứng vào một vị quan lang

Là chàng Thi Sách giỏi giang khác người

Tuổi đời mới độ đôi mươi

Đảm đương mọi việc trong ngoài thay cha

Thi Lạc tướng tuổi đã già

Với Trưng Lạc tướng xưa là tâm giao

Cõi lòng cháy bỏng khát khao

Non sông độc lập phất cao ngọn cờ

Vững lòng đón đợi thời cơ

Bỗng đâu vạ gió, bất ngờ tai bay

Người đi ngậm đắng nuốt cay

Cho người ở lại đêm ngày nhớ thương

Buồn đau thêm vững bước đường

Mọi người rèn tập, ruộng nương cấy cày

Đời người thoảng cánh chim bay

Gối chân đã mỏi, gân tay đã chùng

Thời gian cản bước anh hùng

Thôi đành nhường chí vẫy vùng cho con

Tre già trông đợi măng non

Mai ngày lo sự việc còn dở dang

Chàng Thi dầu phận quan lang

Mắt trông bao chuyện trái ngang ở đời

Nhìn cha nước mắt từng rơi

Càng thương đau lại càng khơi oán hờn

Thương cha nặng gánh giang sơn

Càng mong mau chóng lớn khôn giúp Người

Khác bao trẻ nhỏ ham chơi

Ngày ngày Thi Sách chẳng lơi học hành

Ngọn đèn tỏa sáng đêm thanh

Từng trang sách bỗng hóa thành rừng hoa

Hương bay, bướm lượn, chim ca

Tiên Rồng trăm trứng nở ra đủ đầy

Tay thần Phù Đổng vươn mây

Chàng Lang Liêu gói bánh dày bánh chưng.

Sơn Tinh thắng trận tưng bừng

Đón công chúa giữa lưng chừng núi cao

Sách đèn gợi những khát khao

Mai ngày yên ngựa chiến bào cầm quân

Võ công tập luyện chuyên cần

Đao, thương, cung, kiếm đã dần vững tay

Lẽ đời ăn vóc học hay

Vị quan lang nhỏ mỗi ngày lớn khôn

Sớm chiều võ luyện văn ôn

Tài năng Thi Sách tiếng đồn gần xa

Vững lòng, vị Lạc tướng già

Trao con cai quản binh gia thay mình

“Chu Diên xuất hiện minh tinh”

Tin mừng lan tới Mê Linh một ngày

Mắt bà Mèn Thiện cay cay

Phải chăng tới lúc đổi thay thế thời?

Con ta đã lớn khôn rồi

Song toàn văn võ kém người chi đâu

Đạp bằng thành lũy Luy Lâu

Cần người ý hợp tâm đầu hợp binh

Hai nhà sẵn mối thân tình

Bây giờ tới các con mình thay cha

Chung tay giành lại nước nhà

Non sông độc lập, lòng già mới an

Sau hồi suy ngẫm miên man

Mời Thầy cô đến họp bàn việc quân

Trà thơm chưa cạn đôi tuần

Đường đi nước bước đã dần sáng ra

Cùng em tiếp nước pha trà

Bên tai Trắc vẳng lời cha năm nào

Trào dâng xúc động nghẹn ngào

Chén trà rót quá tay trào ra khay

Giật mình, nhìn mẹ nhìn thầy

Gượng cười, gò má hây hây ửng hồng

Nhìn con lòng lại thương chồng

Bà Mèn ánh mắt cảm thông gật đầu

Chu Diên thư gửi chưa lâu

Hồi âm theo cánh chim câu trở về

Đôi bên nguyện một lời thề

Đợi khi đủ sức nhất tề ra tay

Mời bà Lạc tướng đúng ngày

Tới Chu Diên định kế xoay thế cờ

Niềm vui quá đỗi bất ngờ

Bà Mèn ngồi lại ngắm tờ đáp thư

Cảm hoài xao động tâm tư

“Ông nơi chín suối hãy thư thái lòng!

Thuyền đang mát mái xuôi dòng

Các con ta đã qua vòng dại non

Bạn xưa giữ trọn lòng son

Chung vai gánh cuộc vuông tròn cùng ta

Bồng lai tiên cảnh ông qua

Cúi xin thần thánh, Phật Đà mười phương

Xin mười tám đức Hùng Vương

Độ cho con cháu rộng đường ước mơ!”

Trên sông thuyền đã cập bờ

Khách Mê Linh hướng bóng cờ trên cao

Đôi bên vồn vã hỏi chào

Tâm đầu ý hợp xiết bao thân tình

Chuyện nhà sang chuyện đao binh

Chung lòng cứu nước đinh ninh một lời

Mài gươm, nuôi chí, chờ thời

Một mai sức đủ chuyển dời núi sông

Tiệc vui cạn chén rượu nồng

Mỵ nương, Thi Sách mặt hồng đóa sen

Buổi đầu gặp gỡ làm quen 

Con tim loạn nhịp chợt nhen lửa tình

Người Chu Diên, kẻ Mê Linh

Tìm ra một nửa của mình trong nhau

Như trầu đã bén duyên cau

Hòa trong vôi trắng nên màu thắm tươi

Đắm say mắt liếc nụ cười

Xốn xang tai vẳng những lời yến oanh.

Mối tình lay động trời xanh

Cho hai chí lớn hợp thành thê lang

Uyên ương mang cánh đại bàng

Ba Vì núi đợi, Hát Giang sông chờ

Tháng ngày như thực như mơ

Thuyền tình đã cập bến bờ ái ân

Nước mây, mây nước xa gần

Thắm tươi hoa lá, vang ngân sáo diều…

Non Tây nhuộm đỏ ráng chiều

Bờ tre giỡn gió, trăng treo đầu cành

Mơ màng dế hát thâu canh

Bình minh nắng tỏa nhuộm xanh da trời

Êm đềm muôn hạt mưa rơi

Nồng nàn ánh mắt, ngọt lời yêu thương.

Ai hay trong cảnh thiên đường

Nỗi đau đất nước, quê hương trĩu lòng

Đêm dài người thức, đèn chong

Tìm đường cứu nước, vợ chồng cùng lo

Lênh đênh sông Hát con đò

Chọn nơi đất hiểm, thăm dò nông sâu

Song song hai bóng lên lầu

Đăm đăm ánh mắt Luy Lâu hướng nhìn

Cõi lòng cháy bỏng niềm tin

Mai ngày cờ phất, muôn nghìn quân reo

Giặc kia tan tựa bọt bèo

Trước dòng lũ xoáy, sóng triều hờn căm

Về ta non nước ngàn năm

Phương Nam lại sáng trăng rằm trời Nam

Diệt trừ Tô Định gian tham

Thân này dẫu chết cũng cam tấm lòng

Ngỡ đang chiến trận xung phong

Nghiến răng, nàng bóp tay chồng thật đau

Rụt tay, Thi Sách quay đầu

Vợ chồng đỏ mặt nhìn nhau cùng cười

Lo toan đã mấy tháng trời

Đúc rèn dao kiếm, tìm người mộ quân

Tựa dòng sông Hát đứng chân

Lũy càng vững chắc, thế dần mạnh lên

Tích lương làm kế lâu bền

Đợi thời cơ đến kéo lên hãm thành

Dốc toàn binh lực đánh nhanh

Luy Lâu thất thủ, xung quanh tất hàng

Tiến lui mưu lược sẵn sàng

Lũy cao soi bóng Hát giang đợi chờ…

Bỗng đâu sự biến bất ngờ

Bởi chưng một chút sẩy sơ đề phòng

Dở dang nghiệp lớn chưa xong

Khi chàng Thi Sách sa vòng phục binh

Thân cô, thương tích đầy mình

Múa gươm, dốc sức bình sinh tới cùng

Quặn lòng trong phút lâm chung

Hận trời xanh để anh hùng sa cơ

Cuồng phong bẻ gãy ngọn cờ

Quốc thù chất chứa bao giờ trả xong?

Lại thêm nặng gánh tang chồng

Cắn răng, Trưng Trắc ngăn dòng lệ sa

Bên mình: em gái, mẹ già

Con thơ nằm gọn lòng bà ngủ say

Ban thờ vương vấn khói bay

Gia nhân nhón nhẹ mũi giày vào ra

Ngoài trời chớp giật, mưa sa

Ran ran sấm nổ vỡ òa từng không

Lòng nàng đã dịu bão giông

Lại bùng lên ngọn lửa hồng sục sôi

Thù này, Thi Sách chàng ơi!

Thiếp xin đem trọn cuộc đời trả xong

Xá chi phận gái má hồng

Đầu voi xung trận lập công thay chàng!

Đất này Xích Quỷ, Văn Lang

Dễ đâu để lũ ngoại bang xéo giày?

Giả như vận thiếp không may

Cháu con ta sẽ mai ngày tiếp chân

Miên man suy nghĩ xa gần

Trước tiên lo giữ tấm thân vẹn toàn

Cảnh nhà đương lúc nguy nan

Giặc già Tô Định mưu toan bắt mình

Thân này đâu sợ hi sinh

Nếu là cái chết quang vinh sa trường

Thôi đành tạm biệt quê hương

Tránh xa cạm bẫy tai ương rình mò

Con thơ nhờ mẹ chăm lo

Ta cùng em Nhị ngược đò Hát giang

Tổ tiên ta họ Hồng Bàng

Xưng vua, dựng nước vẻ vang muôn đời

Phong Châu rạng rỡ một thời

Cố đô hãy chọn làm nơi nương mình

Hương hồn tiên tổ anh minh

Độ trì con cháu kế bình giặc Ngô

Mai đây dựng lại cơ đồ

Vững xây nước Lạc, thắm tô non Hồng

Về quê khóc trước mộ chồng

Mặc dòng lệ chảy, báo công dâng chàng.

Đắn đo, cân nhắc kỹ càng

Ngả đầu vai mẹ, nhẹ nhàng nàng thưa

Ngoài trời chưa ngớt gió mưa

Căn nhà ấm cúng nhẹ đưa hương trầm

Nghe con giãi tỏ quyết tâm

Lòng già muôn đợt sóng ngầm xốn xang

“Con ta phận gái đoan trang

Có gan nối chí Hồng Bàng, giỏi thay!”

Bỗng dưng khóe mắt cay cay

Giấu lòng, bà vội đưa tay quệt trầu

Ba người im lặng hồi lâu

Mặc dòng suy tưởng trong đầu cuộn trôi

Chị em ý hợp nhau rồi

Nóng lòng cùng đợi nghe lời mẹ khuyên

Chăm chăm đôi cặp mắt huyền

Trang nghiêm gương mặt dịu hiền chờ mong

Như hai con nước ngược dòng

Thương con, thù giặc sôi trong tim bà

Mẹ con ai muốn cách xa

Nhưng còn nợ nước, thù nhà đợi ai?

Ước mình sức vóc dẻo dai

Nước non nặng gánh trên vai ngại gì!

Hai con quyết chí ra đi

Lòng con mẹ hiểu, cần chi nhiều lời

Sinh ra đứng dưới mặt trời

Mấy ai chẳng thấu lẽ đời nhục vinh

Thiêng liêng tình cảm gia đình

Quyện hòa trong khối nghĩa tình nước non

Nhà còn khi nước Nam còn

Rưng rưng lòng, mẹ nhìn con, gật đầu:

“Các con chí cả, tình sâu

Dốc lòng cứu nước, mẹ đâu dám gàn

Đường dài trắc trở, gian nan

Dựng cơ đồ phải bền gan, vững lòng

Phong Châu là đất tổ tông

Hãy về dựa thế sông Rồng, núi Tiên

Mộ quân, rèn tập côn quyền

Anh hùng, hào kiệt kết liên dưới cờ

Binh lương đón đợi thời cơ

Một ngày như nước vỡ bờ vùng lên

Sức ta bão giật, sấm rền

Giặc kia quét sạch, đáp đền non sông

Trả xong nợ nước, thù chồng

Tin về chín suối, thỏa lòng chàng Thi

Yên tâm, vững bước mà đi

Xa xôi chớ vấn vương chi việc nhà

Sớm hôm có cháu, có bà

Anh em họ mạc chan hòa tình thân

Trung thành, tận tụy gia nhân

Dưới cờ Lạc tướng số quân vẫn còn

Lui về trấn giữ núi non

Sẵn sàng tiếp ứng các con khi cần!”

Chị em lòng hết phân vân

Tâm hồn phơi phới gió Xuân thổi về

Hân hoan, hi vọng tràn trề

Ngoài trời mưa trút, bốn bề gió lay

Trước bàn hương án chắp tay

Thầm thì, Trưng Trắc giãi bày tình riêng

Xin chàng Thi Sách khôn thiêng

Độ cho lòng vững như kiềng ba chân

Vượt qua hết thảy gian truân

Lập công cứu nước, cứu dân, cứu nhà

Lời đâu cháy bỏng thiết tha

Băng ngang bão táp, mưa sa mịt mùng

Lời đâu son sắt thủy chung

Vượt lên trên nỗi tận cùng thương đau

Tâm linh đã tỏ phép màu

Cho người nằm dưới đất sâu thấu cùng

Âm dương cách biệt ngàn trùng

Hiểu nhau qua ánh lửa bùng chân nhang

Yên lòng thu xếp hành trang

Việc nhà cắt đặt kỹ càng trước sau

Gia nhân, quân sỹ chia nhau

Canh khuya bí mật rút mau lên ngàn

Cốt sao lực lượng bảo toàn

Gắng công rèn tập, lo toan cuốc cày

Ở nhà mọi việc từ nay

Binh quyền, gia pháp trong tay Lạc bà

Một trang sử mới nước nhà

Bắt đầu từ chuyến đi xa hai nàng

Hai người con gái Hát giang

Ra đi giành lại Nam bang mai ngày

Bồi hồi thời khắc chia tay

Con tim gửi lại đất này nửa non

Bâng khuâng như mất, như còn

Bước chân bỏ lại lối mòn sau lưng

Bến sông con sóng ngập ngừng

Trời Đông hé rạng đợi vừng dương lên.

Chị em bước xuống khoang thuyền

Ngước nhìn dáng mẹ đứng bên cây cầu

Dặn dò thôi chẳng cần đâu

Tin yêu ánh mắt thay câu giã từ

Mái chèo khuấy động tâm tư

Con thuyền rời bến, từ từ ra sông

Người đi lặng lẽ ngoái trông

Phu thuyền bẻ lái, ngược dòng Hát giang

Sóng sông hay sóng lòng nàng

Cho ô cửa nhỏ nhịp nhàng nghiêng chao?

Vừng hồng chầm chậm lên cao

Mặt sông đón nắng, rọi vào trong khoang

Ven sông đông đúc xóm làng

Mái gồi thấp thoáng sau hàng tre xanh

Đàn cò chao cánh lượn quanh

Tháng Năm, ngọn gió trong lành thổi qua

Nao lòng nhớ đứa con xa

Bóng hình mẹ, chốn quê nhà Hạ Lôi

Sông kia bên lở bên bồi

Ta nay vì nước, đành lơi việc nhà

Mà lòng như nước phù sa

Lở bồi chi vẫn chan hòa tình sông

Mơ màng trong cõi hư không

Chợt nghe vọng tiếng đám đông ồn ào

Làng bên khói lửa bốc cao

Tiếng kêu thảm thiết xoáy vào tâm can

“Đúng là bọn Hán tham tàn

Lại đi cướp phá dã man nữa rồi!”

Hai nàng mím chặt làn môi

Giận mình bất lực, chịu ngồi khoanh tay.

Hỡi ôi trời thẳm đất dày

Biết bao giờ mới tới ngày tuốt gươm?

Rửa hờn, xóa hết đau thương

Xắn tay dựng lại nghiệp vương họ Hùng

Muôn nhà vang khúc ca chung

Cánh chim Lạc lại vẫy vùng trời Nam.

Nhìn lên dãy núi xanh lam

Ba Vì vươn ngọn giăng hàng trời Tây

Núi thiêng Lạc - Việt là đây

Sườn non xa trắng dải mây bồi hồi

Nước sông trôi, tháng năm trôi

Tản Viên vẫn một phương trời hiên ngang

Hồn xưa phò mã Văn Lang

Núi dâng mấy độ, sấm vang bao lần

Nắng mưa, thời thế xoay vần

Ngàn thu bóng núi mộ phần có yên?

Chắp tay quỳ giữa khoang thuyền

Hướng về ngọn núi Tản Viên khấn thầm

Cầu xin Người tự cõi âm

Độ cho diệt hết ngoại xâm mai ngày

Đường đi nước bước chỉ bày

Cẩm nang con cháu hôm nay đang tìm

Khoang thuyền trở lại lặng im

Chợt nghe trong vắt tiếng chim trên đầu

Ngước nhìn: Bầy hạc trắng phau

Ríu ran cất tiếng gọi nhau lưng trời

Ngã ba Hạc đã tới nơi

Mênh mang sóng nước, đầy vơi nỗi lòng

Tam Giang thành cổ rêu phong

Bóng in sông lớn hợp dòng về xuôi

Chiên đàn(1) cây dữ đổ rồi

Quỷ cây đã hết, quỷ người còn đây

Xâm lăng giày xéo đất này

Máu đà nhuốm đỏ bàn tay bạo cường

Nhớ xưa Phù Đổng Thiên Vương

Nhổ tre làm gậy chặn đường giặc Ân

Cổ Loa từng có nỏ thần

Mưa tên trút xuống đầu quân Triệu Đà

Bây giờ tới chị em ta

Thần linh rồi có hiện ra độ trì?

Giống nòi đang lúc lâm nguy

Còn chăng Thánh Gióng. Kim Quy ở đời?

Giữa dòng hoài niệm đầy vơi

Con thuyền cập bến, tới nơi, lên bờ.

Ngỡ ngàng như tỉnh giấc mơ

Phong Châu đất Tổ mong chờ là đây!

Lặng cầm hòn đất trên tay

Mà nghe lịch sử chứa đầy bên trong

Đất này di sản cha ông

Mồ hôi trộn với máu hồng mà nên

Đất này tổ ấm Rồng Tiên

Trăm con chung bọc mẹ hiền sinh ra

Chí trai nối gót mẹ cha

Chia nhau trấn giữ sơn hà, biển khơi

Đất này văn hiến rạng ngời

Chữ ta, ta viết muôn lời thơ hay

Ngợi ca mãi nước non này

Mặt trời sải cánh tung bay ngàn trùng(2)
Hùng thiêng tiếng trống đồng rung

Trăng soi cối gạo giã chung nhịp chày

Diệu kỳ thế những bàn tay

Làm nên thơm dẻo bánh dày, bánh chưng

Ngày Xuân trẩy hội tưng bừng

Điệu Xoan, câu Ghẹo ngập ngừng trao nhau

Môi cười thắm đỏ trầu cau

Răng đen ai nhuộm nhìn lâu càng tình…

Say sưa… Trưng Trắc giật mình

Nhìn em nở nụ cười xinh nhắc lời:

“Mình đi giờ đã tới nơi

Thư về cho mẹ kẻo Người chờ mong!”

Giở ra giấy điệp, bút lông

Viết nhanh Khoa Đẩu mấy dòng nhắn tin

Từng không ngước mắt dõi nhìn

Chim câu vỗ cánh, bóng in mây trời

Bay về mau nhé chim ơi

Cho tin mừng chóng tới nơi mong chờ!

Miên man con sóng vỗ bờ

Bình tâm suy xét bây giờ làm chi

Phong Châu mình đã hiểu gì

Bấy nay cung cấm, thành trì ra sao

Chị em nương náu nơi nào

Tiện bề lo việc lớn lao mai ngày?

Binh tình quân Hán quanh đây

Phải lo nắm kỹ đủ đầy từng nơi”

Khách buôn giả dạng mấy người

Lụa tơ lưng đãy ngược xuôi thăm dò

Vào thành, ra bãi, lên gò

Chú tâm xem xét, đắn đo lựa lời

Từ ngày nhà Thục lên ngôi

Thoắt đà trăm rưỡi năm trời trôi qua

Kinh thành dời xuống Cổ Loa

Phong Châu nào khác vườn hoa hết mùa

Cố đô mười tám triều vua

Tháng năm bỏ mặc nắng mưa dãi dầu

Lâu Thượng, Lâu Hạ, Phượng Lâu…

Đâu đâu cũng cảnh bể dâu hoang tàn

Nhìn nhau nén tiếng thở than

Ngẫm về non nước ruột gan như bào

Trèo lên Nghĩa Lĩnh cao cao

Vạch lau rẽ lối tìm vào lăng vua

Đơn côi phần mộ gió lùa

Mủi lòng ngắt đóa hoa mua dâng Người

Mộ phần rạng cánh hoa tươi

Chắp tay thành kính giãi lời tâm can:

“Dẫu muôn gian khó, nguy nan

Nguyện xin giành lại vẹn toàn núi sông

Đáp đền công đức cha ông

Xứng danh con Lạc, cháu Hồng Văn Lang

Cúi mong tên tổ Hồng Bàng

Độ cho con trẻ vẻ vang mai ngày!”

Rì rào gió hát cùng cây

Người xưa ngỡ đứng đâu đây dõi nhìn

Tiếp thêm dũng khí, niềm tin

Vững chân xuống núi, nắng in má hồng

Hoa đâu hương tỏa thơm nồng

Bàn tay chợt ấm trong lòng bàn tay

Líu lo con sáo gọi bầy

Bên đường, ơ bỗng nở đầy hoa sim!

Mấy hôm lặn lội kiếm tìm

Đất lành chửa thấy cho chim đậu nhờ

Dân tình nghèo đói xác xơ

Oán hờn chồng chất trong mơ vẫn còn…

Bao nhà giặc giết chồng con

Đơn côi vợ trẻ, héo hon mẹ già

Bơ vơ bầy trẻ mất cha

Đêm dài eo óc tiếng gà cầm canh

Thương đau chịu mãi sao đành

Thù này đâu tiếc tuổi xanh, máu đào

Khởi đầu ai biết làm sao?

Thở dài… cục hận nuốt vào bên trong

Nhìn em nước mắt lưng tròng

Thân thương, chị gái nhẹ vòng tay ôm...

                                                        ĐKT

                                                    (Còn nữa)

 

 

Ảnh trên: Núi Ba Vì (Nguồn: Sưu tầm)

1. Chiên đàn: Theo sách “Lĩnh Nam chích quái” thì trước đây tại ngã ba Bạch Hạc có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, trên đó có quỷ Sơn Cuồng ở. Khi quỷ dữ bị tiêu diệt thì cây cũng không còn.

2. Chỉ hình vẽ mặt trời với nhiều cánh trên mặt trống đồng cổ.


Người post: TuanDK

Ngày đăng: 26-07-2017 16:04






Xem 1 - 7 của tổng số 7 Comments

Từ: Guest BinhPT
11/08/2017 17:15:25

Vừa đọc thơ vừa phải lần lại lịch sử để hiểu thêm ý nghĩa đã viết trong bài! Cảm phục anh Tuấn quá! Thấy vẫn còn nữa nên chắc chắn là trường ca rồi! Rất mong được đọc tiếp!



Từ: Guest Lan TT
08/08/2017 23:01:12

Anh Tuấn làm thơ hay quá. Bài này có được gọi là trường ca ko nhỉ? Chúc anh ngày càng có nhiều áng thơ hay.



Từ: Guest Pt Thơ
29/07/2017 20:33:23

Em xin cảm ơn Thơ hay của anh Tuấn. Thật nhuần nhuyễn.



Từ: Meomun
27/07/2017 16:22:12

Em đồng ý với anh Khánh, lá cờ VN xuất hiện đầu tiên ở KN Nam Kỳ.  



Từ: KhanhT
26/07/2017 23:06:57

 


Số là vừa rồi trên mạng xã hội người ta tranh luận cờ đỏ sao vàng có trước hay là “chép lại” cờ của CHND Trung hoa! Mình tìm hiểu lịch sử thì thấy Cờ đỏ sao vàng có từ năm 1940 xuất hiện trong Khởi nghĩa Nam kỳ. Từ 21 đến 23 tháng 9 năm 1940, Xứ ủy Nam kỳ họp mở rộng bàn kế hoạch khởi nghĩa. Để tiến tới khởi nghĩa, một vấn đề được đặt ra là cần có một lá cờ để khẳng định tổ chức, thống nhất hiệu lệnh chỉ huy và động viên quần chúng. Một đảng viên Cộng sản là Nguyễn Hữu Tiến, được giao nhiệm vụ thể hiện và mẫu cờ được ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa gồm Võ Văn TầnNguyễn Thị Minh KhaiNguyễn Văn Cừ... chuẩn y ngay sau đó. Trong khi đó cờ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 khi thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Quốc kỳ nền đỏ, có một ngôi sao vàng năm cánh lớn được bao quanh bởi bốn ngôi sao vàng năm cánh khác nhỏ hơn nằm ở góc trái phía trên. Màu đỏ tượng trưng cho cách mạng và… Lá cờ này được Tăng Liên Tùng, một người ở Thụy AnChiết Giang, Trung Quốc thiết kế. Thơ Bác Hồ trong “Nhật ký trong tù” có câu: “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”! cũng trước năm 1949.


 



Từ: KhanhT
26/07/2017 22:12:08

 


@Tuấn-Lý. Mình rất ấn tượng đoạn này:


“Từ miền đất huyện Chu Diên


Rỉ tai nhau cứ lan truyền khắp nơi


Dân ta nay sắp đổi đời


Trời phương Nam xuất hiện ngôi sao vàng


Ứng vào một vị quan lang


Là chàng Thi Sách giỏi giang khác người”


Và muốn biết “ngôi sao vàng” ở đây là hình tượng văn học hay có căn nguyên lịch sử nào chăng?


 



Từ: Guest Đại
26/07/2017 18:16:52




Hoành tráng và nhuần nhuyễn. Sức sáng tác của anh Tuấn quả là đáng nể, anh có trí tưởng tượng rất mạnh mẽ. Sản phẩm của anh thật đáng khâm phục.




Tổng số bài và comment post theo từng khoa

KhoaBài viếtComment
Sinh 562 9482
387 2824
Hóa 881 9761
Luật 721 11647
Toán 66 376
Kinh tế 4 108
Câu Lạc Bộ 30 1
NCS 3 70
Bạn bè 197 1189
Dự bị 0 0
Ngôn ngữ 2 2

10 người post bài nhiều nhất

UserSố bài viết
TungDX 289
NghiPH 306
NgocBQ 130
ThaoDP 108
CucNT 123
CoDM 88
PhongPT 73
HaiNV 93
LiTM 85
MinhCK 70

10 người comment nhiều nhất

UserComment
Guest 7154
NghiPH 3219
LiTM 1879
HaiNV 1853
KhanhT 1743
CucNT 1718
TungDX 1565
ThanhLK 1545
VanNH 1441
ThoaNP 1257
s