KGU Poetry
KGU Tạo bài viết  
Chọn
Thứ ba 08 Tháng tám. 2017

TRUYỆN CHÙA BỐI LINH (SỐ 5)




Tác giả: TuanDK

 

 

Đường về Lâu Thượng chiều hôm

Bờ tre kẽo kẹt gió nồm nhặt thưa

Mái tranh trải mấy nắng mưa

Cỏ lan lối cũ đón đưa chân người

Vàng son một thuở qua rồi

Người sau về lại bồi hồi mắt trông

Chim chiều chấp chới từng không

Lẻ loi một áng mây hồng về đâu?

Ngày xưa rực rỡ gác lầu

Mà nay chỉ thấy một màu phôi pha

Tháng năm, giặc giã tràn qua

Cho hôm nay nỗi xót xa dâng trào

Bóng ai thấp thoáng sau rào

Ngập ngừng chân định bước vào hỏi thăm

Bỗng nghe thoang thoảng hương trầm

Theo làn gió nhẹ âm thầm lan xa

Chuông chùa đâu thỉnh ngân nga

Xôn xao lay động chiều tà tháng Năm([1])

Cành cao lấp ló trăng rằm

Gieo vào đôi mắt xa xăm ánh vàng

Dấu chân in khắp nẻo đàng

Mà nơi tụ nghĩa mơ màng hỏi đâu?

Tiếng chuông như phép nhiệm màu

Xua đi bao nỗi lo âu dặm dài

Hành trang nhẹ bỗng trên vai

Yên lòng tìm chốn phật đài nghỉ chân

Mặc đâu thế sự xoay vần

Đây hoa đại vẫn ân cần thả hương

Cổng cao trầm mặc bên đường

“Bối Linh” chữ viết chân phương tên chùa

Đều đều theo nhịp mõ khua

Tiếng tụng kinh, tiếng nam mô rì rầm

Đá vàng riêng một chữ “tâm”

Đủ chăng để tới Lôi Âm, niết bàn?

Hành trang gửi lại tam quan

Sửa khăn, vén tóc, chỉnh trang áo quần

Hai nàng lặng lẽ vào sân

Trăng rằm soi tỏ bước chân ngỡ ngàng

Trong chùa ngào ngạt hương nhang

Mờ mờ tượng phật, nến vàng lung linh

Người người thành kính tụng kinh

Niềm tin gửi chốn tâm linh diệu huyền

Ai người trắc trở tình duyên

Ai kia đói rách truân chuyên tháng ngày

Oan khiên ai chịu đắng cay

Ai mang trọng bệnh lắt lay giữa đời

“Nam mô” vừa mới cất lời

Nỗi lòng nghe đã nhẹ vơi đôi phần

Muốn cho thoát bể trầm luân

Gắng công tích đức, tu nhân chẳng nề.

Nhớ câu: “Sống gửi, thác về”

Mai ngày dưới bóng bồ đề thảnh thơi

Tu cho chuyển kiếp con người

Đài cao đức Phật mỉm cười khoan dung

Hai nàng quỳ xuống khấn cùng

Cầu cho non nước vua Hùng hồi sinh

Muôn dân Lạc Việt thái bình

Như ngày xưa thuở nước mình Văn Lang

Nguyện cầu hết mấy tuần nhang

Trăng lên cao tỏa ánh vàng mênh mông

Đầu hồi râm bụt đơm bông

Sân chùa dát ánh trăng lồng bóng đa

Chị em lui gót trở ra

Vui câu chuyện với người già dưới trăng

Hỏi đâu quê quán? Thưa rằng:

Chúng con ở mãi đồng bằng dưới xuôi

Cớ chi đường xá xa xôi

Dặm trường lặn lội về nơi đất này?

Chợt nghe khóe mắt cay cay

Nỗi niềm chất chứa đêm ngày trào sôi

Tâm tư muốn cất nên lời

Giãi bày gan ruột cùng người phương xa

Chờ cơn xúc động đi qua

Giật mình suýt để lộ ra sự tình

Ngước nhìn trăng sáng lung linh

Trong lòng thầm tự trách mình dại non

Đáp rằng: Hai chị em con

Cửa nhà giặc đốt chẳng còn mẹ cha

Tránh loài quỷ dữ yêu ma

Đành lòng rời bỏ quê nhà ra đi

Bơ vơ chưa biết làm gì

Đêm nay cửa Phật từ bi ghé vào

Ước mong đất rộng trời cao

Thần linh, chư Phật, trăng sao rủ lòng

Chở che thân phận long đong

Qua cơn khốn khó, thoát vòng nguy nan

Mai ngày giặc dữ phải tan

Quê cha đất mẹ bình an trở về.

Tai già chăm chú lắng nghe

Mắt già bất chợt ướt nhòe bóng trăng

Tay già lần túi rút khăn

Hằn sâu thêm những nếp nhăn trán già

Hai cô gái lạ phương xa

Nhìn sao chẳng giống con nhà thường dân

Dẫu cho mộc mạc áo quần

Khăn nâu vấn tóc, chân vần dép gai

Tinh thông lộ vẻ ra ngoài

Con nhà dân dã dễ ai sánh tày

Đương khi giặc giã thế này

Xẻ đàn tan nghé xưa nay chuyện thường

Lòng già dâng nỗi xót thương

Lựa lời an ủi, mách đường mưu sinh:

Chùa này tên gọi Bối Linh

Là chùa lớn ở nước mình trước đây

Các vua Hùng đã dựng xây

Lầu son gác tía gần ngay cạnh chùa

Dành cho chi trưởng họ vua

Cành vàng lá ngọc bốn mùa thung dung

Xa xa là các hoàng cung

Vàng son rực rỡ một vùng Phong Châu

Lâu Thượng, Lâu Hạ, Phượng Lâu

Đường quan thẳng lối, kênh sâu lướt thuyền

Nội cung soi bóng hồ sen

Đầm Mai, đầm Sủ, đầm Tiên cá đùa

Nối nhau mười tám đời vua

Thảy đều gửi gắm nơi chùa chữ “tâm”

Đón trăng non, đợi trăng rằm

Vua cùng Hoàng hậu thường thăm chùa chiền

Lạc hầu, Lạc tướng, quan viên

Hòa cùng dân chúng, dưới trên vui vầy

Cùng quỳ trước tượng chắp tay

Cùng nam mô niệm tỏ bày kính tâm

Lụa là chen áo nâu thâm

Quây quần cùng hưởng chung mâm lộc thiền

Gặp thời non nước bình yên

Âm hòa dương thuận, chùa chiền đông vui

Nhân gian tốt đạo đẹp đời

Đài sen Bụt cũng thảnh thơi cõi lòng

Số trời ai biết mà đong

Nhà Hùng hết vận, suy vong tới ngày

Ngai vàng Thục Phán lên thay

Dời đô, quyết chí dựng xây Loa thành

Phong Châu bỗng chốc vắng tanh

Khi vua Thục với triều đình về xuôi

Chùa ta vẫn cứ đông người

Cảnh chùa gợi nhớ mộ thời vàng son.

Trăm năm đá núi thì mòn

Nghìn năm công dựng nước non không nhòa

Các vua Hùng dẫu đi xa

Anh linh vẫn dõi theo ta tháng ngày…!

Hai nàng nghe chuyện mà say

Lung linh vầng nguyệt giãi đầy sân trăng

Trên cao chú Cuội, chị Hằng

Ngắm trần gian, có thấu chăng lòng này?

Trên đường cứu nước từ nay

Chị em tạm lấy nơi đây làm nhà!

Đêm rằm thao thức dần qua

Mị Nương nhuộm sắc cà sa phật đường

Sớm chiều Tam Bảo dâng hương

Thỉnh chuông, tụng niệm mấy chương Bồ Đề

Không gian tĩnh lặng bốn bề

Thả hồn theo khói hương về Tây Thiên

Bữa cơm chay tịnh cửa thiền

Không không sắc sắc bình yên cõi lòng

Tháng ngày hỷ xả thong dong

Dục cùng tham bỏ ngoài vòng nghĩ suy…

Với người: dành chữ từ bi

Lấy câu sinh ký tử quy răn mình

Bao lời Phật dạy chúng sinh

Ngẫm suy càng thấy lý, tình sâu xa

Giã nhà ẩn bóng Thích Ca

Thế gian này tất thảy là hư không.

Trăm năm gốc thiện vun trồng

Oán ân kiếp trước trả xong kiếp này

Chân kinh giác ngộ một ngày

Niết bàn mơ ước hiện ngay bên mình.

Bao lời Phật dạy đinh ninh

Vẫn lo lấy việc dấy binh làm đầu

Nước nhà đang cảnh thương đau

Thôi đành đợi đến kiếp sau quy thiền

Thong dong hưởng lộc Tây Thiên

Một khi nước thịnh dân yên mới là

Đêm nao trước tượng Phật Bà

Nỗi niềm trăn trở thiết tha giãi bày

Chợt nghe khóe mắt cay cay

Thương chồng tủi phận từ ngày trận vong

Thương con mà xót xa lòng

Tuổi thơ côi cút thiếu vòng tay yêu

Càng thương mẹ những sớm chiều

Ngóng tin con với bao nhiêu mong chờ

Thương em đang độ đào tơ

Chung lo việc nước bao giờ nên duyên

Non sông còn nợ lời nguyền

Chưa khôi phục nghiệp Tổ Tiên thôi đành…

Giữa nơi chùa vắng đêm thanh

Mà nghe muôn tiếng dân lành thở than

Muôn dân trong cảnh điêu tàn

Lẽ đâu dành chữ bình an cho mình?

Những lời Phật dạy trong kinh

Chỉ e điều kỵ sát sinh khó toàn

Con sâu cái kiến thôi bàn

Với quân cướp nước bạo tàn đâu tha

Vung gươm cứu nước cứu nhà

Vẫn chung chữ “sát” nhưng là thiện tâm

Ngước nhìn lên tượng Quan Âm

Bên tai Trắc tiếng thì thầm vọng ra:

“Đường tu chuyển kiếp còn xa

Tới ngày chính quả cũng ba bảy đường

Con mơ phục nghiệp Hùng Vương

Mong cho nước thịnh dân cường dài lâu

Cho người người hết khổ đau

Tìm ra đường sáng hãy mau khởi hành!”

Bỗng đâu cơn gió mát lành

Đưa hương hoa đại thơm quanh chiếu ngồi

Đài sen Đức Phật mỉm cười

Lung linh ánh nến rạng ngời dung nhan

Trong lòng hy vọng chứa chan

Lòng như bay giữa không gian đạo đời.

Những khi nắng dịu đẹp trời

Chị em tản bộ dạo chơi quanh làng

Cố đô nước cũ Văn Lang

Trước sau chỉ thấy hàng hàng tre xanh

Lầu cao nhường chỗ mái gianh

Mênh mang đầm nước bao quanh gò đồi

Nước trong in bóng mây trôi

Đàn cò chao cánh kiếm mồi đồng xa

Người quê chào đón thăm nhà

Nước chè, khoai luộc bưng ra thết mời

Lặng nghe gia chủ cất lời

Rưng rưng tình đất, tình người nơi đây

Xưa kia trên mảnh đất này

Nhà nông chăm chỉ cấy cày, tằm tơ

Đầm ao thả lưới buông lờ

Mía de kéo mật cậy nhờ sức trâu

Chẻ tre đan thúng, đan gầu…

Khéo tay Lâu Thượng kém đâu quê người

Nhìn nhau chủ, khách cùng cười

Vẫn nghe chua xót trong lời hân hoan

Phận người nước mất, nhà tan

Sướng vui chi giữa vô vàn khổ đau

Nhìn em, Trưng Trắc gật đầu

Ước chi mình có phép màu cứu dân

Đường làng giục giã bước chân

Ghé thăm đền miếu thôn gần xóm xa

Còn đây dấu tích ông cha

Ẩn mình sau sắc nâu và rêu xanh

Vụt thành khoảng sáng long lanh

Nổi trên nền xám bức tranh đượm buồn

Giếng Rùng[2] nước vẫn trào tuôn

Bên đền người giữ mạch nguồn quê hương

Quýt vàng trải bấy gió sương

Trái thơm vẫn đợi Đại Vương ([3]) vin cành

Miếu Thầy([4]) dưới tán cây xanh

Chứng nhân bao cuộc bại thành bể dâu

Cô Thầy nằm dưới đất sâu

Mấy trăm năm có an đâu giấc nồng

Nhớ thương lắm chữ cha ông

Nét Khoa Đẩu có còn không mai ngày?

Vững bền cầu đá ai xây

Ríu ran con trẻ qua đây thuở nào

Trường xưa dựng giữa đồi cao

Giọng Thầy đầm ấm tạc vào tuổi thơ

Nước non ơi biết bao giờ

Chữ ta về với giấc mơ học hành?

Bên bờ đầm nước trong xanh

Mộ ba đô sỹ lừng danh triều Hùng

Quyên sinh giữ trọn lòng trung

Tiếng thơm truyền mãi khắp vùng Phong Châu

Vừng dương chỉ một trên đầu

Mặc cho mây gió thay màu hợp tan

Suối ngàn giấc ngủ bình an

Gương trong gửi lại nhân gian hồng trần

Cổng chùa cách mấy bước chân

Miếu thờ Thánh Tản tri ân đức dày

Diệt quân Thục Phán ra tay

Phò vua giúp nước tháng ngày nên công

Muôn sau con Lạc cháu Hồng

Vẫn truyền nhau chuyện kén chồng Mỵ Nương

Tình yêu đâu dễ ai nhường

Sơn Tinh dâng núi chặn đường Thủy Tinh

Kẻ phàm hay đấng thần linh

Trăm năm hồ dễ hận tình tiêu tan

Hè sang lũ lại dâng tràn

Bình chân núi Tản, gầm vang sông Đà…

Đền thờ danh tướng Lữ Gia([5])

Còn đây trầm mặc một tòa rêu phong

Quốc thù quyết trả chưa xong

Dặm trường lưng ngựa máu hồng tuôn rơi

Anh hùng để hận muôn đời

Tiếng than vang vọng đất trời Tràng Đông

Gò Hào máu nhuộm chiến công

Xương khô Cắc Cớ chất chồng thương đau.

Chị em lặng lẽ bên nhau

Bâng khuâng dạo gót dưới màu xanh tre

Bối Linh lối cũ quay về

Lại trăn trở dưới xum xuê bóng thiền

Câu rằng: “Lạc đạo tùy duyên”

Sông đâu mãi lặng cho thuyền êm trôi

Đương khi bão giật sóng dồi

Đạo đời chung mái chèo bơi con đò.

                                          (Còn nữa)

 



[1] Theo Thần tích Lâu Thượng, Hai Bà Trưng về ở chùa Bối Linh vào ngày Rằm tháng Năm.

[2] Giếng Rùng: Một ngôi giếng cổ ở Lâu Thượng tương truyền có từ thời Hùng Vương. Khi vua Hùng đi săn qua đây múc nước giếng tắm, nước mát lạnh làm nhà vua  rùng mình nên giếng có tên như vậy.

[3] Đại Vương: Tức Đại Nại Cao Sơn Đại Vương, em trai vua Hùng Quốc Vương, người thành lập Trại Quýt Vàng ở Lâu Thượng.

[4] Miếu Thầy: Tức Thiên Cổ Miếu, nơi thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang.

[5] Lữ Gia: Vị tướng thời nhà Triệu đã chiến đấu chống quân nhà Hán xâm lược và hy sinh tại đồi Hào, thôn Tràng Đông, Lâu Thượng.

Ảnh trên: Chuông chùa Bối Linh đúc năm 1831.


Người post: TuanDK

Ngày đăng: 08-08-2017 14:02






Xem 1 - 6 của tổng số 6 Comments

Từ: Guest Pt Thơ
10/08/2017 20:20:22

Anh Tuấn, dù chuông đúc từ thời nào, đối với em cũng thật là quý.



Từ: TuanDK
10/08/2017 09:56:40

 


Bạn Pt Thơ thân mến.


Xin lỗi bạn vì phần chú thích về chuông chùa có sự nhầm lẫn. Mình đã sửa lại phần chú thích trong bài rồi. Song dù sao, đó cũng là một cổ vật có từ đầu triều Nguyễn còn lưu lại được tại chùa. Xin cám ơn bạn và mong bạn thông cảm. 


 


 



Từ: Guest Pt Thơ
09/08/2017 18:25:34

À, Bức Ảnh "Chuông đồng cổ chùa Bối Linh đúc thời Lý"  thật là quý, thật là đẹp. Nếu sau này có duyên đến được đây em nhất định sẽ chụp một bức ảnh bên chiếc chuông đồng làm kỷ niệm.



Từ: Guest Pt Thơ
09/08/2017 18:19:13

Thơ hay lắm anh Tuấn ơi. Sau này mong Anh chia sẻ câu chuyện "Viết truyện thơ này", có lẽ cũng giá trị không kém với những gì anh đã chia sẻ. Xin cảm ơn Anh. 



Từ: KhanhT
09/08/2017 11:51:20

 


Quả là:


"Trăm năm đá núi thì mòn


Nghìn năm công dựng nước non không nhòa


Các vua Hùng dẫu đi xa


Anh linh vẫn dõi theo ta tháng ngày…!" và mãi mãi!


 



Từ: Guest Đại
09/08/2017 11:22:23




Anh Tuấn viết thật bền bỉ với tình yêu quê hương sâu sắc. Bây giờ được mấy người như anh ngồi với “chuyện ngôi chùa cổ chắp vần diễn ca...” thế này. Thế giới tâm hồn anh quả là phong phú, kiến thức chỉn chu. Có lẽ không trang web hội hè nào có được những bài sử ca như của anh đâu.




Tổng số bài và comment post theo từng khoa

KhoaBài viếtComment
Sinh 562 9482
387 2824
Hóa 881 9761
Luật 721 11647
Toán 66 376
Kinh tế 4 108
Câu Lạc Bộ 30 1
NCS 3 70
Bạn bè 197 1189
Dự bị 0 0
Ngôn ngữ 2 2

10 người post bài nhiều nhất

UserSố bài viết
TungDX 289
NghiPH 306
NgocBQ 130
ThaoDP 108
CucNT 123
CoDM 88
PhongPT 73
HaiNV 93
LiTM 85
MinhCK 70

10 người comment nhiều nhất

UserComment
Guest 7154
NghiPH 3219
LiTM 1879
HaiNV 1853
KhanhT 1743
CucNT 1718
TungDX 1565
ThanhLK 1545
VanNH 1441
ThoaNP 1257
s