KGU Tạo bài viết  
Chủ nhật 05 Tháng một. 2014

LỜI NGƯỜI BÊN SÔNG




Tác giả: (CucNT Sưu tầm)

 

 

 

 -------------------------------------------------------

BẢN QUYỀN CHO MỘT TIẾNG LÒNG
Và rồi cuối cùng, tôi đã phải làm cái việc đăng ký bản quyền cho một tiếng lòng - một việc mà vì không muốn làm tổn thương đến tình cảm thiêng liêng với đồng bào, đồng đội mà bao nhiêu năm nay tôi đã không nỡ làm. Cũng vì vậy, cho dù khi làm cái
...việc mang tính thủ tục pháp lý này, tôi cũng chẳng phải vì để đòi cái này, buộc cái kia, so đo chắc lép một tiếng lòng thiêng liêng, khi bài thơ đó, tiếng lòng đó đã , đang và mãi mãi được đồng bào, đồng đội GIỮ DÙM như một thứ BẢN QUYỀN NHÂN DÂN…
Vâng, cho dến bây giờ, kể từ chiều ngày 27/7/1987, khi rứt lòng thốt lên những câu chữ, thành bài thơ “ Lời người bên sông” như hiện nay …Tôi không nghĩ bài thơ lại được đồng bào, đồng đội cảm nhận, và trân quý , đồng thời cũng là đề tài tranh luận vê câu chữ, khiến bài thơ đến với mỗi người với những dị bản khác nhau, dù chỉ là vài từ xuôi, ngược… và dị bản nào cũng được người đọc, người ngâm khẳng định chắc như nêm: Đó là thơ Lê Bá Dương.
Từng đã có một quãng thời gian, hiện tượng: một bài thơ có nhiều dị bản được đưa lên luận bàn khắp nơi, đặc biệt cũng tốn khá nhiều giây mực…Theo đó, tôi với tư cách tác giả cũng đã có một vài bài viết, giới thiệu chính xác từng câu chữ, ý tứ bài thơ …Tuy nhiên, gần đây, không những không giảm, mà ngày một nhiều hơn những cuộc tranh luận xung quanh câu chữ trong bài thơ…Và thật tệ hơn, gần như đang có hẳn một “chiến dịch” cho rằng: Bài thơ này Lê Bá Dương “ăn cắp từ thơ dân gian, sửa lại thành thơ mình” ?. Thậm chí mới đây từ Thái Bình , một vài người xưng là hội viên hội văn học nghệ thuật Thái Bình, sau khi vào Quảng Trị làm fim tài liệu về đã quả quyết : Hai câu đầu trong bài thơ này là thơ của “lính ngụy”??? Những “hội viên “ này khi được đề nghị cho biết căn cứ về lời xác quyết trên, đã trả lời: Thông tin này được trưởng ban thời sự Đài truyền hình Quảng Trị khẳng định (?)… Thực lòng tôi cũng chẳng tin người Quảng Trị lại bạc ngôn với một tấm lòng như tôi. Nhưng dù sao thì những thông tin bịa tạc dù vô tình hay hữu ý đó cũng đã trực tiếp làm nhem bẩn sự trong trẻo của một tiếng lòng vẹn nguyên không chỉ riêng tôi được viết nên từ xương máu đồng bào, đồng đội. Hơn thế, đó còn là tấm lòng, và là sự tri ân của cả một thế hệ được sống trong hòa bình nhưng vẫn day dứt khôn nguôi khi nhớ về những đồng đội thân yêu đã dâng hiến trọn tuổi thanh xuân cho đất nước.
Vậy nên, dẫu rằng bài thơ và là tiếng lòng mình đã và đang được đồng bào đồng đội giữ gìn, nhưng để tiếng lòng đó không vì một sự vô tình hay hữu ý làm vẩn đục tôi đã phải thực hiện việc đăng ký bản quyền – một việc làm mang tính thủ tục pháp lý lẽ ra không nên áp cho một tiếng lòng .
Nhân đây, xin được trở lại bài viết THƠ TÔI MÃI MÃI MỘT TIẾNG LÒNG đăng trên tạp chí VĂN HIẾN VIỆT NAM , và cùng với bài viết này, xin được tặng anh chị em bạn bè trong và ngoài “làng phây” nguyên tác bài thơ trong bản in chính thức kèm bằng chứng nhận bản quyền.

THƠ TÔI MÃI MÃI MỘT TIẾNG LÒNG

NHỮNG DỊ BẢN QUANH BÀI THƠ
Bài thơ được “viết” vào chiều 27/7/1987. Xin được đóng ngoặc kép chữ “viết” vì cái cách làm thơ, hoặc làm vế đối bất chợt trong đầu và nhớ nhập tâm rồi sau này tiện lúc nào thì viết thành chữ vào nhật ký, hoặc in sách báo...Theo cách viết này, nếu in tôi có thể in vài tập đầy đặn, và bài thơ LỜI NGƯỜI BÊN SÔNG cũng cùng một cách viết như vậy.
Về nguyên bản bài thơ đầu tiên được thốt ra như thế này:
Đò lên Thach Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Tan chợ chiều xuôi đò có vội
Xin, xin đừng khuấy đục dòng trong.
Viết vậy bởi hôm đó, sau lễ hương hoa cho đồng bào, đồng đội. Tôi, một mình ngồi lặng lẽ bên bờ Thạch Hãn, chợt thấy từng chiếc thuyền của cô bác ngược dòng lên chợ Quảng Trị. Nhìn những mái chèo hối hả khuấy tung bọt nước, chạnh lòng khi nghĩ đến bạn bè, đồng đội vẫn còn gửi thân xác vào đáy sông mà xót xa. Cứ vậy từng lời như từ trong ngực tôi mà thốt ra thành câu, thành chữ như vậy thành bài thơ – đúng hơn là lời nhắn gửi, thỉnh cầu của một người lính với mọi người trong cả dòng đời xuôi ngược.
Bài thơ “viết” để trải lòng mình nên tôi không gửi in ở đâu, ngoại trừ một lần cuối năm 1987 khi cùng nhà văn Thế Vũ đi dự đại hội Văn nghệ thừa thiên Huế trở về Nha Trang, nằm trên tàu tôi có đọc cho Thế Vũ nghe. Sau này vào khoảng đầu năm 1990, trong một lần chuyện trò với 2 người bạn là nhà văn Đỗ Kim Cuông và nhà văn Thế Vũ tại hội văn nghệ Nha Trang, Thế Vũ bỗng gợi lại chuyện bài thơ và nói với nhà văn Đỗ Kim Cuông rằng: Lê Bá Dương không chỉ là nhà nhiếp ảnh mà còn viết ký và thơ “đọc được” lắm. Nhân đó Thế Vũ bảo tôi đọc lại bài thơ với ý định giới thiệu trên tạp chí Cánh Én (tạp chí của hội Văn Nghệ Nha Trang nơi Thế Vũ đang phụ trách biên tập). Đỗ Kim Cuông nghe xong nói ngay: Bài thơ rất cảm động, nhưng xót xa quá. Và về câu chữ, từ “xin” cứ lặp đi lặp lại nhiều lần có nên không? Nghe Đỗ Kim Cuông nhận xét, tôi giải thích là bài thơ chỉ là lời thỉnh cầu xuất phát từ tâm trạng xót xa của một người lính với đồng bào, đồng đội đã hi sinh, đó chính là cảm xúc, là tâm trạng của tôi. Nói vậy nhưng sau đó, khi ngẫm lại ý kiến của Đỗ Kim Cuông về từ từ xin, vậy nên khi chép lại cho Thế Vũ và Đỗ Kim Cuông, tôi đã sửa lại từ XIN trong câu đầu tiên thành từ ƠI… Đây là thán từ gọi đò theo phương ngữ Quảng Trị. So với từ xin thì từ ơi đò… bớ đò… hoặc đò ơ… khi gọi lên có tiếng đồng vọng nên nghe thắt thẻo hơn. Riêng 2 câu sau được viết lại thành hai câu: Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm. Với bản thơ này, anh Đỗ Kim Cuông đã biên tập sử dụng in trên tạp chí Khoa học công nghệ Khánh Hoà số kỷ niệm ngày TBLS 27/7/1990 với bản mới:
Đò lên Thach Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm.
Bẵng qua năm 1992, tôi được mời về dự kỷ niệm 20 năm giải phóng Quảng Trị (2/5/72-2/5/92). Trong dịp này, nghe có cuộc hành hương về nguồn của đoàn thanh niên Quảng Trị về chiến khu Ba Lòng, tôi đã nhập cuộc với các bạn trẻ làm chuyến bộ hành về nguồn. Cùng đi có nhà báo Đào Tâm Thanh, nhà báo Lê Đức Dục ( cùng ở Báo Quảng Trị) và nhạc sỹ Thế Hùng.
Trong chặng đường về chiến trường xưa đầy ắp cảm xúc, cùng với những bài hát tếu táo hồi chiến tranh, tôi đã đọc một vài bài thơ ngẫu hứng viết trong một thời trận mạc, trong đó khi Lê Đức Dục hỏi về “sự tích” tôi thả hoa trên sông Thạch Hãn đã được nhà báo Văn Thuần viết cho chương trình Văn Nghệ mừng xuân của đài phát thanh Quảng Trị phát trong đêm 30 tết 1987. Kể lại cho Lê Đức Dục nghe câu chuyện trên, tôi buột miệng đọc lại bài thơ thay cho việc lý giải cả một câu chuyện dài về việc tôi về thắp hương, thả hoa cho đồng đội trên núi, trên gò đồi và sông suối ở Quảng Trị. Bẵng đến tháng 7 năm 1991, theo ý của Lê Đức Dục muốn “viết một cái chi đó” cho tạp chí Cửa Việt… Tôi đọc lại cho Lê Đức Dục bài thơ và sau đó không lâu, bài thơ được in thay cho phần mở đầu và được nhắc lại ở phần viết về tác giả bài thơ trong Tuỳ bút của Lê Đức Dục trên tạp chí Kiến thức ngày nay, số 180, nhân kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ 27/7/1992 (Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh) với tựa bài: “Thành cổ Quảng Trị- Khúc tưởng niệm của lau trắng và phượng hồng”. Và không chỉ một lần in trên KTNN, sau này từ mối quan hệ anh em, ngưỡng mộ và quý trọng nhau giữa tôi và Lê Đức Dục, bài thơ đã nhiều lần được Lê Đức Dục giới thiệu qua nhiều bài viết về Quảng Trị, và cả viết về chân dung nhân vật, sự kiện trên báo Tuổi Trẻ… Có thể nói, Lê Đức Dục là người đầu tiên và là người có nhiều bài viết rất sâu sắc, cảm động về tôi cũng như bài thơ của tôi. Trong đó đặc biệt là bài tuỳ bút: Sử thi về một giòng sông in trên Tuổi Trẻ chủ nhật số 29 (số ra tháng 7/1998) được nhiều bạn đọc quan tâm. Cũng trong bài viết này, Lê Đức Dục đã nhắc lại bài thơ:
Đò xuôi Thach Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.
Như vậy, cũng như bài thơ in trên KTNN, từ lên và ơi… trong câu đầu đã được viết thành từ xuôi và xin. Ở câu cuối từ mãi mãi được viết thành từ bãi mãi. Ngay trong bản thơ xuất hiện một cách khiêm nhường tại bảo tàng Thành cổ Quảng Trị, cũng có hai từ chưa chính xác. Đó là từ xuôi và từ xin vốn dĩ nguyên bản là từ lên và từ ơi.. Sở dĩ dùng từ lên bởi có ngược lên thì người ta mới phải vất vả khuấy mái chèo đến độ người lính phải xót xa. Và từ ơi là thán từ gọi đò ơ...ơi... đò. Ơ...ớ... đò ... nghe có tiếng đồng vọng... và là phương ngữ Quảng Trị nghe thắt thẻo hơn, da diết và âm vọng hơn trong không gian Thạch Hãn nhạy cảm và linh thiêng.
Nói vậy, nhưng có lẽ do bài thơ là tiếng lòng chung cho mọi người, đặc biệt là bài thơ còn được gắn với việc một người lính hàng năm một đôi lần về thắp hương thả hoa cho đồng bào, đồng đội. Vì vậy, từ khi xuất hiện trên báo bài thơ đã được mọi người chú ý. Người này nhớ một vài câu, người khác nhớ cả bài 4 câu, nhưng thường thì mọi người nhớ và thuộc hai câu đầu trong cả bài thơ 4 câu… Và ngay cả 2 câu đầu đó cũng vẫn có vài từ khác nhau. Vì vậy nếu nói như vậy là dị bản thì đây là một dị bản đầu tiên trong những dị bản được nhiều người ở Quảng Trị nói riêng và của cả nước nói chung đọc và ai cũng khẳng định đó mới chính là thơ... Lê Bá Dương. Các dị bản như vậy thường chỉ khác nhau một vài từ như :
DB1:
Đò XUÔI Thach Hãn XIN chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ BÃI mãi ngàn năm.
DB2 khác với DB1 ở từ ơi thay cho từ XIN trong câu đầu
Đò XUÔI Thạch Hãn ƠI chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ BÃI mãi ngàn năm
DB3khác vớiDB3 ở từ LÊN thay cho từ XUÔI trong câu đầu và từ mãi thay cho từ BÃI trong câu 4
Đò LÊN Thach Hãn ƠI chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ MÃI mãi ngàn năm

Cũng có bản từ HAI MƯƠI trong câu thứ 3 được đổi thành từ ĐÔI MƯƠI … Như vậy, ngoại trừ nguyên bản ban đầu với “nguyên bản” thứ 2 do tác giả sửa thì các dị bản được truyền miệng trong nhân gian không khác nhau bao nhiêu. Tuy nhiên cho dù đọc với chính bản hoặc bất cứ một dị bản nào đều cảm nhận đó chỉ là tiếng lòng vẹn nguyên của tác giả gửi gắm vào những dòng thơ xót xa hòa lẫn máu và nước mắt, thấm đậm tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Bởi vậy có lẽ cũng không nên đem các bản thơ đặt lên bàn cân săm soi chẻ từ, chiết nghĩa từng chữ trong một bài thơ dồn nén cảm xúc như vậy làm gì. Với tôi, tuy là tác giả, nhưng tôi vẫn coi bài thơ là tiếng lòng của mọi người. Và nói cho cùng, bài thơ không chỉ là bài thơ được viết bằng xương máu đồng bào, đồng đội. Hơn thế, đó còn là tấm lòng, và là sự tri ân của cả một thế hệ được sống trong hòa bình nhưng vẫn day dứt khôn nguôi khi nhớ về những đồng đội thân yêu đã dâng hiến trọn tuổi thanh xuân cho đất nước.
Nói như nhà báo Nguyễn Chính trong một buổi giao lưu với các bạn văn nghệ sỹ khi nhắc đến các bài thơ nổi tiếng rằng: Lịch sử dân tộc ghi nhận nhiều bài thơ, câu thơ nổi tiếng thời đại. Riêng bài thơ Lời người bên sông của Lê Bá Dương không những nổi tiếng mà còn là bài thơ có mãnh lực đánh thức mọi thời đại.

VÀ CŨNG NHIỀU GIAI THOẠI.
Do bài thơ là tiếng lòng lại được viết và xuất hiện từ mảnh đất thiêng, nhạy cảm là Quảng Trị nên được rất nhiều người trên cả nước biết đến. Hiện tại bình quân mỗi ngày tác giả cũng có một vài cuộc điện thoại từ đâu đó trên cả nước gọi hỏi về bài thơ. Thậm chí khách hàng tại Phú Yên còn gọi lên tổng đài 108 đề nghị cung cấp thông tin bài thơ, tên, số điện thoại tác giả…Ngay cả tựa bài thơ “Lời người bên sông” cũng là một trong những giai thoại đó. Do là một cảm xúc được biểu đạt như một lời thỉnh cầu, bởi vậy lúc đầu bài thơ không có tựa đề, cho dù chỉ là cái tựa “vô đề “ như những bài thơ khác. Sau này khi người biên tập tạp chí đưa bài thơ đi nhà in, thấy thiếu cái tựa bài liền gọi điện hỏi xem tựa bài thơ thế nào? Nghe hỏi vậy, tôi giải thích: Đó chỉ là lời người bên sông… Không ngờ người biên tập cứ nghĩ đó là câu trả lời của tác giả và thế là “Lời người bên sông” bỗng thành tên bài thơ…
Trở lại với bài thơ, có nhiều người cứ tưởng bài thơ còn nhiều câu nữa nên điện hoặc trực tiếp đề nghị tôi cho biết trọn vẹn cả bài thơ. Nhưng thực sự do lối viết thơ ngẫu hứng như viết nhật ký bằng văn vần, nên các bài thơ của tôi thường rất ngắn. Dài nhất cũng chỉ chục câu như bài “Cha con”. Tôi viết như một nén nhang thắp cho hai cha con đồng đội tôi cùng hy sinh trong một ngày, và ngắn là “bài thơ” vỏn vẹn có …2 câu được viết trong một tình huống khác. Hôm chuẩn bị vào sâu về phía nam mặt trận, cô bé trong nhà dân chợt hỏi: Chú ơi, tại sao lại gọi là quân giải phóng Bắc Quảng Trị. Vội quá, tôi lấy bút viết vội vào trang sách học trò của cô bé hai câu thơ và cũng là hai vế đối:
Một khẩu súng giữ hai trời Nam Bắc
Một dấu chân in màu đất hai miền.
Mãi tới dịp kỷ niệm 35 năm giải phóng Quảng Trị, cô bé bấy giờ đã là cựu du kích trao lại cho tôi tờ giấy kẻ ngang đã úa vàng nhưng vẫn nguyên nét chữ của tôi viết 2 câu thơ. Hôm mới rồi đi cùng đồng đội lên cao điểm 544, anh Đoàn Công Tính đã đề nghị một nhà thư pháp viết hai câu thơ mà anh nói là tuyên ngôn hay nhất bằng thơ về quân giải phóng Bắc Quảng Trị của Lê Bá Dương.
Nhân trải lòng như một sự thể hiện chính kiến của mình về bài thơ, xin được chép tặng bạn đọc nguyên tác bài thơ của tôi:

LỜI NGƯỜI BÊN SÔNG
Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ
Đáy sông còn đó, bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm

Nha Trang 1/1/2014
LÊ BÁ DƯƠNG

 

 


Người post: CucNT

Ngày đăng: 05-01-2014 20:08






Xem 1 - 10 của tổng số 13 Comments


Trang:  1 | 2 | Tiếp theo >  Cuối cùng >>

Từ: Guest Trần Vĩnh Tường
25/05/2015 09:53:03

Kính chào anh Lê Bá Dương


 Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ Lòi nguoi bên sông do anh "viết". Có lúc tự đọc một minh để tự nghe, có lúc đọc cùng bạn bè, nhưng nhiều nhất vẫn là đọc cho sinh viên nghe. Lần nào đọc cũng xúc động, cũng thấy mới và như có tiếng vọng từ quá khứ, từ đáy sông. Còn xuc động hơn, khi được mô tả bà cụ chèo đò cho  anh thả hoa trên sông Thạch Hãn, anh gửi tiền công, nhưng cụ nói: mi mần rứa tau răng lấy tiền được. Tôi đã nhèo mắt, lau kính để đọc tiếp. Kính chúc anh-chiến sĩ THÀNH CỔ, thật khỏe.



Từ: Guest huyentoy75@gmai.com
23/12/2014 15:12:43

tôi xem phim mùi cỏ cháy 2 lần và khu tôi ở tranh luận nhiều về bài thơ khác trên thành cổ  cảm ơn nhà thơ   xuc dong qua toi khong the dien ta duoc nhieu cam xuac cua minh va ban be , nhan ky niem 70 nam thanh lap QDND Viet Nam toi mong sao phim mui co chay va nhung bai tho ve cuoc chien tranhcua dan toc ta hay luon chuyen tai ve cho the he tre  dung quen va khong the quen nhung nam thang hao hung va mau lua nay



Từ: CucNT
07/01/2014 18:49:49

Chị Thanh ơi! Những tâm tình của chị đáng để khắc trên bia đá, bên cạnh thơ của Lê Bá Dương. Lâu nay bận cháu nên chị ít tham gia viết bài quá. Chị hãy tranh thủ nhé! Đặc trưng riêng của chị là văn trộn lẫn với thơ, rất hay rất hấp dẫn, chị ạ!


Cảm ơn anh Nghị, chị Thục đã "chung một tấm lòng".



Từ: ThanhLK
06/01/2014 23:55:31

Bài thơ ngắn nhưng sâu lắng của Lê Bá Dương từ lâu đã chảy hòa vào những nốt nhạc của người KGU. Bài viết này được em CucNT đăng lên, một lần nữa lại làm cho Chợ KGU xao xuyến .


@ CúcNT:  đã lâu khi đọc bài thơ “Lời người bên sông” chị đã có những cảm nghĩ như trong mấy câu dưới đây, chị chia sẻ cùng Cúc nhé:


Lời người tâm sự bên Thạch Hãn


Đáy sông Bạn hỡi thấu chăng tình


“Đò ơi chèo nhẹ” -  lời tha thiết !


Sóng lòng nhớ Bạn mãi không yên .



Từ: ThucPT
06/01/2014 21:54:41


Cảm ơn Cúc đã cho biết những thông tin về nhà thơ Lê Bá Dương và những dị bản của bài thơ lời người bên sông. Chị ít quan tâm đến "Thế giới văn nghệ" nên không biết Lê Bá Dương :))




Từ: NghiPH
06/01/2014 18:01:46

Cảm ơn, cảm ơn Lê Bá Dương về tiếng lòng với những người đã hy sinh trên dòng sông Thạch Hãn- những người rất trẻ vừa rời ghế nhà trường.



Từ: CucNT
06/01/2014 16:23:03

Bài thơ chỉ 4 câu thôi nhưng để đến được với độc giả yêu thơ (Trong trường hợp này thì không chỉ là thơ đến với độc giả mà tiếng lòng của cả dân tộc tri ân những người con yêu dấu đã kiên cường chiến đấu hy sinh vì non sông gấm vóc) cũng phải trãi qua những long đong, lận đận để rồi cuối cùng sự thật một  tiếng lòng đến được với tất cả. Một tác phẩm văn học dù ngắn hay dài đều như những công trình nghiên cứu khoa học, tác giã đã dồn  vào đó bao xúc cảm, bao trở trăn, bao tâm  huyết nên theo em việc đăng ký bản quyền là hết sức quan trọng.Các dị bản có thể hay hơn theo ý chủ quan của người đọc nhưng chúng ta tôn trọng xúc cảm và quyền tự quyết định của tác giả. Người đọc, theo em nghĩ, có thể đưa ra những phương án khác cho bài viết của người khác chứ không nên sửa thơ hay văn của họ. Đôi khi những hàm ý sâu xa tác giã gửi gắm đằng sau bài viết nhưng người đọc chưa hiểu hết ý.


Em tâm đắc với Lê Bá Dương "Đã là tiếng lòng thì không nên săm soi từng câu chữ". Đúng, đặc trưng của thơ là phải có vần, có nhạc. Đôi khi không đủ từ cho hết 1 câu, tiếng nhạc trong thơ sẽ bị hụt hững. Trường hợp này nếu " Vỗ yên bờ mãi ngàn năm", câu thơ sẽ bị thiếu vì cả 3 câu trên đều 7 tiếng...


Em rất muốn cảm ơn Lê Bá Dương vì 1 bài thơ bất hủ và vì những lý do cho sự đăng ký bản quyền trên đây.


Cảm ơn tất cả anh chị em đã hưởng ứng!



Từ: Guest VinhCX
06/01/2014 15:26:33

Cảm ơn CucNT đã post bài này. Đây coi như một Tuyên ngôn chính thức của Lê Bá Dương về xuất xứ và câu từ của một Bài thơ đầy cảm xúc song đã gây ra nhiều tranh cãi. Chính bản thân anh em Khóa 74 chúng tôi khi vào thăm Thành cổ Quảng Trị dịp cuối năm 2012 đã  tận mắt thấy có 2 Dị bản khac nhau khắc trên 2 Bia đá ở hai bờ Sông Thạch Hãn. Bia đá ở Bờ Bắc do Vietinnank tài trợ khắc đúng như lời của tác giả LBD, còn Bia đá Bờ Nam như DB1



Từ: LyTM
06/01/2014 10:56:41

Dị bản nào cũng hay, mỗi từ đều có ý nghĩa. Lời của người sống, và lời người đã ra đi nhưng linh hồn còn sống mãi:


Lời bên sông, lời bên ngọn suối,


lời bên đồi cát cháy, đảo hoang,


lời của những rặng cây đã mọc hàng hàng,


lời của thảm cỏ non mênh mang sương rớt,...


Lời của gió đang thì thào không ngớt,


mỗi hạt đất quê đều có tiếng tuổi xuân


của ngàn đời ông cha ta đánh giặc,


của ngàn đời đánh đuổi quân phương bắc!


 


Lời của núi sông, của những gì xuân sắc


của thịt của da, của xương cốt, máu đào


của linh hồn bất diệt, vẫn xôn xao


đó là mẹ cha, là các anh, các chị,


là bạn bè ta, là những điều cao hơn thành lũy


đó là lời hồn Việt vọng muôn phương,...


dẫu có thành ngọn cỏ, giọt sương,


vẫn kiêu hãnh điểm tô đất ông cha trường tồn thịnh vương!



Từ: HanhLM
06/01/2014 10:02:56

Việc tác giả Lê Bá Dương đăng ký bản quyền bài thơ nổi tiếng "Lời người bên sông" là một thủ tục pháp lý cần thiết, mình nghĩ như vậy. Tuy nhiên, việc một bài thơ ngắn chỉ có 4 câu mà có nhiều dị bản khác nhau chứng tỏ tiếng lòng của tác giả đã trở thành tiếng lòng của bao người con đất Việt.




Trang:  1 | 2 | Tiếp theo >  Cuối cùng >>

Tổng số bài và comment post theo từng khoa

KhoaBài viếtComment
Sinh 563 9482
387 2824
Hóa 882 9765
Luật 721 11647
Toán 66 376
Kinh tế 4 108
Câu Lạc Bộ 30 1
NCS 3 70
Bạn bè 197 1189
Dự bị 0 0
Ngôn ngữ 2 2

10 người post bài nhiều nhất

UserSố bài viết
TungDX 289
NghiPH 306
NgocBQ 130
ThaoDP 108
CucNT 123
CoDM 88
PhongPT 73
HaiNV 93
LiTM 85
MinhCK 70

10 người comment nhiều nhất

UserComment
Guest 7169
NghiPH 3219
LiTM 1879
HaiNV 1853
KhanhT 1743
CucNT 1718
TungDX 1565
ThanhLK 1545
VanNH 1441
ThoaNP 1257
s